Diễn đàn “Tái cơ cấu nông nghiệp: Giải pháp phát triển hiệu quả và bền vững chuỗi giá trị nông sản” do Tạp chí Kinh Doanh (VnBusiness) thực hiện, với mục tiêu thúc đẩy phát triển bền vững và hiệu quả chuỗi giá trị nông sản - một yếu tố cốt lõi trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp Việt Nam. Tham dự Diễn đàn có sự tham gia của đông đảo các chuyên gia, nhà quản lý, đại diện các hợp tác xã (HTX) và doanh nghiệp nông nghiệp trong nước và các tổ chức quốc tế.
Toàn cảnh Diễn đàn “Tái cơ cấu nông nghiệp: Giải pháp phát triển hiệu quả và bền vững chuỗi giá trị nông sản”. |
Đúng 8h30 ngày 28/8, Diễn đàn chính thức khai mạc.
Phát biểu khai mạc, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân khẳng định, Diễn đàn “Tái cơ cấu nông nghiệp: Giải pháp phát triển hiệu quả và bền vững chuỗi giá trị nông sản” là một sự kiện ý nghĩa, khẳng định những nỗ lực góp phần thúc đẩy phát triển bền vững của ngành nông nghiệp Việt Nam.
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân phát biểu khai mạc Diễn đàn. |
Nhằm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022) và Luật Hợp tác xã số 17/2023/QH15 có hiệu lực từ ngày 1/7/2024, thông qua Diễn đàn hôm nay, Liên minh HTX Việt Nam mong muốn được tiếp thu, đúc kết những ý kiến đóng góp, kiến nghị, thảo luận từ đại diện các Bộ ngành liên quan, các chuyên gia, cộng đồng HTX và các doanh nghiệp để cùng nhau xây dựng chuỗi giá trị nông sản ngày càng hiệu quả hơn nữa.
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nhấn mạnh: Diễn đàn lần này cũng nhằm cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết số 106/NQ-CP ngày 18/7/2023 của Chính phủ về phát triển HTX nông nghiệp trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Đồng thời, là diễn đàn để các đại biểu trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, tìm kiếm các giải pháp phát triển kinh tế tập thể, HTX, tạo điều kiện để các cơ quan quản lý nhà nước, HTX, chuyên gia cùng nhau tìm ra con đường phát triển bền vững cho chuỗi giá trị nông sản.
Tái cơ cấu nông nghiệp đang đi vào đúng quỹ đạo
Trong gần 8 tháng đầu năm 2024, hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản trong cả nước tiếp tục có nhiều điểm sáng, là yếu tố quan trọng tạo ra tăng trưởng của ngành nông nghiệp và khẳng định vai trò nền tảng của nền kinh tế. Nhất là duy trì tăng trưởng ổn định, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và phục vụ xuất khẩu.
“Điều này phần nào khẳng định việc tái cơ cấu nông nghiệp đang đi vào đúng quỹ đạo, trong đó có sự đóng góp cực kỳ quan trọng của khu vực kinh tế hợp tác với hơn 20.000 HTX nông nghiệp và hàng chục ngàn tổ hợp tác nông nghiệp, cùng với trên 3,8 triệu thành viên HTX là nông dân”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam đánh giá.
Theo số liệu thống kê, hiện nay cả nước đang có trên 4.000 HTX tham gia liên kết theo chuỗi giá trị (chiếm gần 13% tổng số HTX) với các hình thức liên kết chuỗi giá trị phát triển đa dạng theo các công đoạn trong chuỗi giá trị nông sản.
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nhấn mạnh: “Có thể nói, để thúc đẩy tiêu thụ nông sản một cách tốt nhất và nâng cao giá trị cho nông sản Việt thì việc phát triển hiệu quả và bền vững chuỗi giá trị nông sản là vấn đề sống còn trong tái cơ cấu nông nghiệp. Điều này nhằm đáp ứng cho thị trường quốc tế đang tiếp tục mở rộng cho Việt Nam với gần 20 FTA đã ký kết và đàm phán, cũng như đáp ứng nhu cầu cho thị trường trong nước với quy mô hơn 100 triệu dân”.
Tuy nhiên, theo Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam, cần nhìn nhận một thực tế là vẫn còn nhiều mặt hạn chế và thách thức nhất định cho việc phát triển bền vững chuỗi giá trị nông sản. Và một trong những hạn chế lớn nhất hiện nay là mối liên kết giữa các tác nhân trong cùng một khâu (liên kết ngang), cũng như giữa các khâu (liên kết dọc) trong chuỗi giá trị còn lỏng lẻo.
Trong đó, ở một số ngành hàng nông sản, mối liên kết ngang giữa các hộ nông dân thông qua hình thức tổ hợp tác và HTX thậm chí mới dừng lại ở việc chia sẻ kinh nghiệm sản xuất hoặc để tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ từ chương trình, dự án trong và ngoài nước, chưa thực hiện được hình thức cung ứng và tiêu thụ tập trung. Hoặc như trong khâu sơ chế biến chỉ mới dừng lại ở mức độ thỏa thuận không chính thức về phân vùng thu mua nguyên liệu, chưa hình thành liên kết ngang để thống nhất giá cả và chất lượng.
Thêm vào đó, liên kết giữa các tổ hợp tác/HTX trong một số ngành hàng cũng chỉ mới dừng lại ở chỗ liên kết mang tính thời vụ, chưa mang tính chia sẻ rủi ro và lợi ích, do vậy vẫn chưa đạt được tính bền vững cao. Nhìn chung, các mối liên kết trong sản xuất và tiêu thụ vẫn chưa thật sự vững chắc.
Không những vậy, số HTX xây dựng được thương hiệu sản phẩm chưa nhiều, giá trị cạnh tranh trên thị trường chưa cao. Chưa có nhiều HTX có năng lực tổ chức liên kết, phát huy vai trò cầu nối thật sự hiệu quả, có khả năng lan tỏa trong phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị.
Chính vì thế, trong tái cơ cấu nông nghiệp, để chuỗi giá trị nông sản Việt phát triển bền vững và hiệu quả đòi hỏi phải khắc phục mặt những hạn chế cố hữu này. Nhất là cần liên kết chặt chẽ trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ. Đồng thời, cần củng cố và phát triển các tổ chức sản xuất tập thể và các mối liên kết dọc giữa các tác nhân trong chuỗi.
Ngoài ra, trước xu hướng tiêu dùng nông sản xanh và sạch của thị trường trong và ngoài nước như hiện đang đặt ra yêu cầu chuỗi giá trị nông sản phải hướng tới thúc đẩy các nông dân, HTX, doanh nghiệp áp dụng các tiêu chuẩn mới và điều chỉnh hoạt động chuỗi của mình nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh để đảm bảo phù hợp với nhu cầu thị trường. Tính cấp thiết phải chuyển đổi sang hệ thống nông sản thực phẩm xanh, phát thải thấp, đồng thời “xanh hóa nền nông nghiệp không phải gánh nặng mà là cơ hội” đang đặt ra yêu cầu cho chuỗi giá trị nông sản Việt cần góp phần tạo ra những thay đổi bền vững trong quy trình canh tác và chế biến.
Trong các giải pháp để phát triển chuỗi giá trị nông sản bền vững và hiệu quả thì không thể thiếu vai trò nòng cốt của các HTX nông nghiệp. Do đó, điều cần làm trong thời gian tới là phải tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HTX nông nghiệp theo định hướng phát triển bền vững. Nhất là các HTX cần ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Hơn nữa, cần ưu tiên phát triển HTX nông nghiệp gắn với phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức.
Mặt khác, để phát triển bền vững chuỗi giá trị nông sản trong tái cơ cấu nông nghiệp cũng rất cần đẩy mạnh phát triển, liên kết giữa các HTX với nhau. giữa HTX với doanh nghiệp, tập đoàn, liên kết sản xuất theo mô hình sản xuất kinh doanh gắn với tập đoàn kinh tế, viện nghiên cứu, sản phẩm OCOP và các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, hàng hóa khác.
Hơn nữa, các HTX nông nghiệp cần mở rộng quy mô gắn với quy hoạch vùng sản xuất và cấp mã vùng trồng; nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ, mạnh dạn trong tiếp cận công nghệ mới, tiên tiến, vốn, tín dụng để đầu tư sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân cho hay, ngành nông nghiệp Việt Nam đang có được nhiều chính sách của Nhà nước hỗ trợ thúc đẩy trong nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm nhóm chính sách về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, hỗ trợ giống, liên kết sản xuất tiêu thụ, chuyển đổi số, phát triển chế biến sâu, khuyến khích kêu gọi đầu tư, thuế và tín dụng đối với hoạt động xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Nhìn chung, về mặt chính sách hỗ trợ thúc đẩy chuỗi giá trị nông sản Việt là không thiếu.
Do đó, theo Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam, vấn đề còn lại là năng lực và điều kiện tiếp cận của các tác nhân trong chuỗi giá trị nông sản đối với các chính sách này như thế nào, hoặc khâu chính sách nên điều chỉnh như thế nào để phù hợp với tình hình thực tế của tái cơ cấu nông nghiệp.
"Tôi mong rằng thông qua Diễn đàn “Tái cơ cấu nông nghiệp: Giải pháp phát triển hiệu quả và bền vững chuỗi giá trị nông sản” sẽ có những thông tin giá trị, hiệu quả để vận dụng tốt vào thực tiễn sản xuất kinh doanh của ngành nông nghiệp trong thời gian tới.
Chắc chắn rằng với những ý kiến đóng góp, những giải pháp phát huy cơ chế chính sách nói chung, các kiến nghị, đề xuất nhằm thúc đẩy phát triển chuỗi giá trị bền vững được đưa ra tại Diễn đàn lần này sẽ nhận được sự quan tâm, tiếp thu của các cơ quan chức năng. Và điều kỳ vọng là thông qua việc thực thi một loạt các giải pháp mang tính đồng bộ sẽ giúp mang lại những cơ hội và lợi thế cho chuỗi giá trị nông sản Việt”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam khẳng định.
6 giải pháp phát triển bền vững chuỗi giá trị nông sản
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến khẳng định: tái cơ cấu ngành nông nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả và đảm bảo tính bền vững trong chuỗi giá trị nông sản là một vấn đề lớn, một chủ đề quan trọng đối với tăng trưởng, phát triền bền vững của nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến. |
Nông nghiệp đạt được những thành tựu to lớn, là trụ đỡ của nền kinh tế Việt Nam, không chỉ đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, mà còn đóng góp lớn vào xuất khẩu thu ngoại tệ cho đất nước. Mặc dù vậy, phát triển nông nghiệp của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại và thách thức, nhất là trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, cạnh tranh ngày càng cao cùng với biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp. Do vậy, tiếp tục cơ cấu lại và phát triển bền vững chuỗi giá trị nông sản là một nhiệm vụ cấp bách và cần thiết.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNN cho biết, thời gian qua, ngành nông nghiệp thực hiện chủ trương tái cơ cấu và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, to lớn, tăng trưởng duy trì ở mức cao (năm 2023 tăng 3,83%, cao hơn mức Chính phủ giao).
Trong 6 tháng đầu năm 2024, tăng trưởng 3.38%, nhiều chuỗi giá trị ngành hàng được hình thành, phát triển mạnh mẽ, nhiều sản phẩm nông sản của Việt Nam đã có mặt tại các thị trường quốc tế (kể cả thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản). Sản lượng các loại cây trồng và vật nuôi chủ lực như lúa, cà phê, cao su, trái cây, thủy sản ngày càng tăng.
Các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị được phát triển phù hợp với điều kiện sản xuất của vùng, tiểu vùng và từng địa phương đê nâng cao giá trị sản phẩm; nhiều mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và lâm nghiệp đã được hình thành, phát triển mang lại hiệu quả kinh tế cho cả doanh nghiệp và nông dân.
Đặc biệt, thông qua liên kết, nhiều doanh nghiệp đã xác lập mối quan hệ bền vững giữa sản xuất và chế biến, tạo ra vùng nguyên liệu ổn định; nhiều loại nông sản chính liên kết gắn với yêu cầu bảo đảm tiêu chí về an toàn vệ sinh thực phẩm và truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu hàng hóa.
Trong cả nước đã xuất hiện nhiều mô hình sản xuất giá trị kinh tế cao, như: Các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đối với lúa, trái cây, hoa, chăn nuôi, thủy sản, lâm sản...; mô hình cánh đồng lớn; mô hình vườn cây ăn trái tập trung chuyên canh (tại Cần Thơ doanh thu bình quân 500 triệu đồng/ha/năm), vùng xoài cát Hòa lộc sản lượng 10.000 tấn/năm...; mô hình nuôi tôm thẻ siêu thâm canh tại Bạc Liêu (năng suất 80 tấn/ha năm, doanh thu 9,2 tỷ đồng/ha); mô hình sản xuất lợn giống (270.000 con giống/năm)...
Nhờ đó, cùng với công tác xúc tiến thương mại, thị trường nông sản không ngừng mở rộng, xuất khẩu nông sản chuyển mạnh sang chính ngạch và có mặt trên 200 quốc gia, vùng lãnh thổ, đứng thứ 2 Đông Nam Á và đứng thứ 15 thế giới; tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2021 - 2023 trên 155,2 tỷ USD, năm 2024 dự kiến đạt 55 -56 tỷ USD. Trong đó, có 11 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu từ 1,0 tỷ USD trở lên, với 6 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 3 tỷ USD.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Bộ NN&PTNN cho rằng, bên cạnh những thành tựu là chủ yếu, ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức, đó là: Cơ cấu sản xuất nông nghiệp chưa hợp lý; năng suất và chất lượng nhiều nông sản chưa cao trong khi xu hướng tiêu dùng xanh và đòi hỏi ngày càng cao của thị trường; bảo vệ môi trường; phương thức sản xuất còn lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Hệ thống logistics và chuỗi cung ứng còn yếu kém, dẫn đến tình trạng thất thoát sau thu hoạch và chi phí sản xuất cao.
“Đặc biệt, biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, gây ra nhiều hiện tượng thiên tai như hạn hán, lũ lụt, xâm nhập mặn. Bên cạnh đó, đất đai và nước ngọt ngày càng khan hiếm và bị suy thoái. Việc sử dụng quá mức và không bền vững tài nguyên đất và nước đã ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp”, ông Tiến nhấn mạnh.
Từ những khó khăn trên, ở góc độ quản lý nhà nước, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng thời gian tới, để nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững chuỗi giá trị nông sản, phải triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện các Nghị quyết, kết luận, Chỉ thị, Quyết định của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ liên quan đến cơ cấu lại ngành nông nghiệp; trong đó có Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của BCH Trung ương Đảng (khóa XIII) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2023, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 - 2025.
Thứ trưởng nêu 6 giải pháp cần tập trung thực hiện trong thời gian tới.
Một là, đổi mới cơ cấu cây trồng và vật nuôi: Chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Cần tập trung vào các sản phẩm chủ lực có lợi thế cạnh tranh cao, đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp.
Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp hữu cơ và an toàn không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân mà còn góp phần bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng. Cần có các chính sách hỗ trợ, khuyến khích nông dân chuyển đổi sang sản xuất hữu cơ và an toàn.
Hai là, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả và tính bền vững của chuỗi giá trị nông sản. Các công nghệ mới như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, tự động hóa trong sản xuất và quản lý nông nghiệp sẽ giúp tăng năng suất, giảm chi phí và bảo vệ môi trường.
Đồng thời, ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo giống cây trồng và vật nuôi, sản xuất phân bón và thuốc bảo vệ thực vật sinh học; giúp cải thiện năng suất, chất lượng sản phẩm và khả năng chống chịu với các điều kiện bất lợi của môi trường…
Ba là, xây dựng, thực hiện các chương trình đào tạo, tập huấn, và chuyển giao công nghệ phù hợp, giúp người nông dân nắm bắt và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Các chương trình đào tạo, tập huấn cho người nông dân về các kỹ thuật sản xuất hiện đại, quản lý sản xuất và tiếp cận thị trường. Việc đào tạo sẽ giúp nâng cao trình độ và kỹ năng của người nông dân, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất…
Bốn là, liên kết chặt chẽ giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị nông sản từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả và đảm bảo tính bền vững. Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX, doanh nghiệp và nông dân hợp tác với nhau. Đồng thời, việc xây dựng các chuỗi liên kết theo mô hình "từ nông trại đến bàn ăn" sẽ giúp nâng cao chất lượng sản phẩm và gia tăng giá trị gia tăng.
Cùng với đó, hoàn thiện, điều chỉnh các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX nông nghiệp, đặc biệt là các HTX kiểu mới…
Năm là, mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ nông sản cả trong nước và quốc tế là một giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Cần tập trung vào việc xây dựng thương hiệu, nâng cao chất lượng sản phẩm, và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường.
Đồng thời, xây dựng và phát triển các thương hiệu nông sản Việt Nam; đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm nông sản Việt Nam.
Sáu là, phát triển nông nghiệp bền vững phải đi đôi với việc bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Các biện pháp như sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật sinh học, quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn nước, bảo vệ đất đai và đa dạng sinh học cần được áp dụng rộng rãi. Việc xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án nông nghiệp xanh cũng sẽ góp phần quan trọng vào phát triển bền vững.
Trong đó, cần tăng cường áp dụng các biện pháp kỹ thuật và công nghệ tiên tiến trong quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất, nước. Việc sử dụng hợp lý tài nguyên sẽ giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường. Xây dựng và triển khai các chương trình, dự án nông nghiệp xanh nhằm bảo vệ môi trường, giảm thiểu phát thải khí nhà kính, và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên. Thực hiện hiệu quả Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long”.
Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, trong điều kiện và bối cảnh mới, khi Việt Nam đã hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nông nghiệp được đánh giá là ngành có nhiều cơ hội nhưng cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thách thức.
“Từ những ý tưởng, những sáng kiến, đề xuất có giá trị của quý vị tại Diễn đàn ngày hôm nay; ngành nông nghiệp Việt Nam sẽ không ngừng phát triển, nâng cao hiệu quả và và phát triển bền vững trong chuỗi giá trị nông sản; góp phần xây dựng, nâng tầm nông sản Việt trên thị trường thế giới. Đây là nhiệm vụ không chỉ của riêng ngành nông nghiệp mà cần có sự chung tay góp sức của toàn xã hội, từ các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, HTX đến người nông dân”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Sản xuất nông nghiệp bền vững không thể thiếu ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất
GS.TS Trần Đức Viên, Chủ tịch Hội đồng khoa học và đào tạo, Học viện Nông nghiệp Việt Nam khẳng định, ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN) hiện đại vào sản xuất nông nghiệp đang là xu hướng chủ đạo, là chìa khóa thành công của các nước có nền nông nghiệp phát triển trên thế giới. Thực tiễn đã chứng minh việc đẩy nhanh nghiên cứu, ứng dụng KHCN vào sản xuất đã đóng góp rất lớn đến sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam.
Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT, KHCN và đổi mới sáng tạo đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp; trong lĩnh vực sản xuất giống cây trồng, vật nuôi đạt 38%. KHCN đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa nông sản trên thị trường trong nước và quốc tế.
Theo ông Viên, các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cũng ngày càng phát triển. Đến nay, cả nước có 49 doanh nghiệp (DN) nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Nhiều DN có trình độ tiên tiến ngang tầm khu vực và thế giới, như: TH Group (sữa), Dabaco (chăn nuôi), Nafoods (trồng, chế biến trái cây), Doveco (xuất khẩu nông sản chế biến), Nam miền Trung (tôm), Vingroup (rau), Ba Huân, Lộc Trời…
Trong hoạt động sản xuất, các DN này ứng dụng phổ biến các máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại, tự động hóa trong chăm sóc, theo dõi sức khỏe, kiểm soát mọi hoạt động của cây trồng, vật nuôi. Việc vệ sinh chuồng trại chăn nuôi cũng áp dụng các công nghệ tiên tiến nhất, xử lý tự động hoặc sử dụng đệm lót sinh học bảo vệ môi trường…
GS.TS Trần Đức Viên, Chủ tịch Hội đồng khoa học và đào tạo, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. |
Ngoài ra, các thiết bị, quy trình công nghệ hiện đại đã được ứng dụng trong nghiên cứu, sản xuất và tiêm vắc xin phòng trừ dịch bệnh cho vật nuôi, qua đó nâng cao năng suất và chất lượng thương phẩm, đồng thời giảm thiểu chi phí và công sức lao động của bà con nông dân.
Ví dụ, mô hình chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung quy mô công nghiệp công nghệ cao của Tập đoàn TH được triển khai từ tháng 10/2009 với tổng vốn đầu tư 1,2 tỷ USD. Tới nay đã vận hành 9 trang trại với gần 70.000 con bò sữa.
Trang trại của TH True Milk ứng dụng những công nghệ hàng đầu trong chăn nuôi bò sữa như: hệ thống quản lý đàn Afifarm - Israel tiên tiến nhất thế giới; quy trình quản lý dịch bệnh và thú y của New Zealand; quy trình, thiết bị xử lý nước sạch của Hà Lan; quy trình, thiết bị xử lý nước thải và chất thải của Nhật Bản, Israel, Hà Lan; hệ thống vắt sữa tự động khép kín.
“Sau hơn một thập kỷ phát triển, TH là niềm tự hào của người Việt khi thiết lập những thành tựu chưa từng có tiền lệ trong ngành sữa, ghi dấu Việt Nam trên bản đồ sữa thế giới với cụm trang trại công nghệ cao khép kín đạt kỷ lục lớn nhất thế giới”, GS.TS Trần Đức Viên nhận xét.
Mặc dù vậy, ông Viên cho rằng nông nghiệp Việt Nam vẫn là nền sản xuất nhỏ và manh mún, chuỗi giá trị nông sản chưa được phát triển bền vững, trình độ ứng dụng công nghệ còn thấp. Một số ngành và lĩnh vực vẫn chưa đạt trình độ của cách mạng công nghệ lần thứ 2. Vì thế, sức cạnh tranh của nông nghiệp thấp, chuỗi giá trị thực phẩm nông sản chưa phát triển. Điều này làm cho năng suất lao động thấp, sản lượng nông nghiệp bình quân trên mỗi lao động ở Việt Nam chỉ bằng 1/3 của Indonesia và chưa bằng 1/2 so với Thái Lan và Philippines (Ngân hàng Thế giới, 2017).
Mặc dù có một số doanh nghiệp đã áp dụng được công nghệ của nền nông nghiệp thông minh, nhưng hầu hết các công nghệ này là nhập khẩu, ít có sản phẩm công nghệ được sản xuất tại Việt Nam.
Theo ông Viên, mục tiêu chính của việc áp dụng công nghệ là tăng năng suất nông nghiệp, tiếp đến là cải thiện dinh dưỡng của sản phẩm nông nghiệp. Các công nghệ có tác động lớn nhất đến năng suất nông nghiệp trong 10 năm tới bao gồm việc sử dụng cây trồng biến đổi gen hiện có, quản lý đất và nước, kiểm soát dịch hại, và chế biến sau thu hoạch. Những ứng dụng sinh học phân tử vào vật nuôi và cây trồng là những tiến bộ công nghệ có khả năng ảnh hưởng lớn nhất đến năng suất nông nghiệp vào năm 2040. Những tiến bộ trong công nghệ cung cấp các phương tiện để tạo ra những thay đổi cụ thể tương đối nhanh chóng thông qua biểu hiện mạnh hoặc xóa các gen hoặc đưa vào các gen lạ.
Việt Nam đang phấn đấu xây dựng một nền nông nghiệp công nghệ cao, đảm bảo cho an ninh lương thực cùng với sự phát triển kinh tế bền vững và bảo vệ môi trường. Các công nghệ mới nổi này với những tác động ở các mức độ khác nhau, sẽ định hướng cho hoạt động và phát triển của ngành nông nghiệp thế giới và cũng sẽ tác động đến nông nghiệp Việt Nam trong những thập kỷ tới.
Doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam đang đối diện với 5 thách thức lớn
Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thuỷ nhận xét: Nông nghiệp Việt Nam có năng lực sản xuất dồi dào, các sản phẩm phong phú, đa dạng, có khả năng cung ứng lớn cho thị trường thế giới với lợi thế cạnh tranh từ 16 FTA phủ khắp các thị trường lớn như CPTPP, EU, ASEAN…
Các FTA đã tạo ra lợi thế cạnh tranh rất lớn cho các mặt hàng nông, lâm, thủy sản chiến lược và có thế mạnh nhờ cam kết cắt giảm thuế quan; đồng thời tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao vào khu vực nông nghiệp, tham gia sâu, bền vững vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tuy nhiên, ông Thuỷ cho rằng trong thời gian tới, xuất khẩu nông sản Việt Nam vẫn phải đối diện với 5 thách thức lớn: giá nguyên liệu đầu vào tăng cao; chi phí vận tải, logistics chưa có dấu hiệu giảm; chính sách nhập khẩu của các nước liên tục thay đổi; yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng ngày càng tăng; người tiêu dùng nước ngoài có xu hướng thắt chặt chi tiêu do áp lực lạm phát.
Đồng thời, trong bối cảnh giá năng lượng dự báo tăng cao, đặc biệt là giá lương thực, thực phẩm, từ đó đặt ra thách thức đối với việc bảo đảm an ninh lương thực và suy giảm giá trị thặng dư.
Những thách thức trên đòi hỏi Việt Nam cần phải có những chính sách đồng bộ và hiệu quả để đảm bảo sự phát triển bền vững trong chuỗi cung ứng nông sản xuất khẩu toàn cầu.
Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thuỷ. |
Theo ông Thuỷ, cần có các giải pháp về tổ chức sản xuất như: Hoàn thiện và công bố quy hoạch các vùng nuôi trồng hàng nông sản xuất khẩu theo từng nhóm hàng đặc trưng trên từng địa bàn; Khuyến khích các hộ nuôi trồng sản phẩm nông sản đăng ký chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP…
Bên cạnh đó, khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở chế biến hàng nông sản xuất khẩu đầu tư công nghệ mới vào dây chuyền sản xuất chế biến đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm đáp ứng yêu cầu của nhà nhập khẩu. Nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, xây dựng các thương hiệu mạnh, có uy tín trên thị trường xuất khẩu.
Song song với đó, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, tăng cường hệ thống thông tin về thị trường, khoa học công nghệ, tiến bộ kỹ thuật mới cho các hộ nuôi trồng, chế biến và các doanh nghiệp XK thông qua hoạt động của các hội, hiệp hội, các phương tiện thông tin đại chúng…
Đặc biệt, chú trọng xây dựng thương hiệu cho nông sản: Các hiệp hội ngành hàng nông sản nên tổ chức giới thiệu sản phẩm của ngành mình cho người tiêu dùng tại các nước mà hàng Việt Nam xuất khẩu tới, nhằm tạo dựng niềm tin của người tiêu dùng đối với các sản phẩm nông sản mang thương hiệu Việt Nam. Có thương hiệu, hàng nông sản của Việt Nam mới có thể tham gia bền vững vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Đối với doanh nghiệp, chuyên gia này cho rằng, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu với vai trò là người điều hành chuỗi cần chủ động tiếp cận và ký kết các bản ghi nhớ về liên kết; sau đó tiến tới ký kết hợp đồng chính thức với các hộ sản xuất trong vùng nguyên liệu đã quy hoạch, theo hướng hợp đồng đảm bảo tiêu thụ sản phẩm nhằm tạo lập niềm tin cho các hộ nông dân nuôi trồng, khuyến khích họ có trách nhiệm với việc nuôi trồng sản phẩm nông sản xuất khẩu.
Đồng thời, với vai trò là trung tâm chuỗi, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cũng cần có sự kết nối chặt chẽ với hệ thống thông tin của các thành viên khác trong chuỗi. Sự chia sẻ và kết nối hiệu quả sẽ góp phần cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời cho tất cả các thành viên trong chuỗi, giúp cân đối tốt hơn công tác thu mua, dự trữ và vận chuyển; hướng tới giảm thiểu những dao động về cung cầu trên thị trường; từng bước đáp ứng yêu cầu truy nguyên nguồn gốc xuất xứ sản phẩm nông sản xuất khẩu.
Đối với các bộ ngành cũng cần có cơ chế khuyến khích và hỗ trợ phù hợp để tăng cường và mở rộng đầu tư, liên kết, chuyển giao công nghệ theo hướng hình thành các cơ sở chế biến quy mô lớn, công nghệ hiện đại, qua đó tăng được công suất chế biến, tăng tỷ lệ chế biến sâu, tạo sản phẩm chất lượng, đáp ứng nhu cầu cao của thị trường thế giới.
HTX có vị thế vững mạnh hơn trong chuỗi giá trị
Bà Lê Thị Thu Hiền, Giám đốc Tổ chức phát triển HTX Hà Lan (Agriterra) tại Việt Nam cho biết, Agriterra được thành lập vào năm 1997 bởi khu vực HTX nông nghiệp Hà Lan: Hiệp hội Nông nghiệp và Trồng trọt Hà Lan, Hội đồng HTX Nông nghiệp và Trồng trọt Quốc gia, Tổ chức Hợp tác phụ nữ Hà Lan và Tổ chức Thanh niên nông nghiệp Hà Lan.
Tại Hà Lan, nông dân có tổ chức (trong HTX và Tổ chức nông dân) có vị thế vững mạnh hơn trong chuỗi giá trị, trên thị trường và đối với chính quyền, từ đó nông dân có thể tự phát triển, cải thiện mức sống và tăng sinh kế ở khu vực nông thôn.
Các HTX vì sự phát triển kinh tế nông thôn và gắn kết xã hội. Các tổ chức nông dân cho các dịch vụ liên quan, môi trường chính sách thuận lợi và môi trường kinh doanh.
Bà Lê Thị Thu Hiền, Giám đốc Tổ chức phát triển HTX Hà Lan (Agriterra) tại Việt Nam |
Chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn từ Hà Lan, bà Hiền cho biết hiện nay để đảm bảo môi trường, Chính phủ Hà Lan có thể đóng cửa 3000 trang trại, nên Chính phủ thúc đẩy nông nghiệp đa giá trị như: Nông nghiệp kết hợp với du lịch sinh thái; trại dưỡng lão; đa dạng sinh học.
Chính phủ ký Thỏa thuận với các siêu thị lớn, Hiệp hội Nông nghiệp & trồng trọt (LTO) và các bên liên quan giúp thúc đẩy tiêu dùng nông sản hữu cơ (tăng doanh số 10%)
Để thúc đẩy việc sử dụng sinh khối, Chính phủ đã hỗ trợ các mô hình sản xuất nhiên liệu, hóa chất, điện năng và chất đốt, mở ra cơ hội phát triển cho ngành hóa chất và bền vững hơn vì sử dụng nhiên liệu xanh.
Bên cạnh đó, Chính phủ khuyến khích các giải pháp bảo vệ thực vật an toàn và bền vững.
Hiện nay tại Hà Lan có nhiều mô hình HTX phát triển như: Royal Agrif.
Tại Việt Nam, có 2 đặc diểm chủ đạo là sự phát triển đa dạng và yêu cầu cao hơn nhiều, liên kết mạnh mẽ hơn giữa người sản xuất và các quy mô nhỏ với nhau. Hiện nay, người tiêu dùng hiểu biết tốt hơn nên chuyển sang ăn ngon, ăn sạch.
Người nông dân tạo ra sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường ngày càng khắt khe hơn. Vì vậy cần phải cam kết giữa người nông dân với HTX, cam kết của HTX với các tác nhân trong chuỗi giá trị.
Hiện tại, Agriterra đã và đang hỗ trợ hơn 70 đối tác và dự án, hoạt động tại 17 tỉnh thành trên cả nước. Điển hình như hợp tác với Liên minh HTX Việt Nam, Liên minh HTX các tỉnh, các HTX cơ sở, Cục Kinh tế hợp tác của Bộ NN&PTNN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các tổ chức chuyên môn, các nền tảng, doanh nghiệp...
Hiện nay, Agriterra Việt Nam đã và đang hỗ trợ các chuỗi giá trị như 2 HTX chè, 4 HTX cà phê, 2 HTX trồng trọt, 7 HTX thuỷ sản, 26 HTX lúa gạo… Trong đó, tư vấn xây dựng chiến lược kinh doanh, sử dụng hiệu quả nguồn lực; Ứng dụng chuyển đổi số (HTX và thành viên); Tập huấn gia tăng cam kết thành viên; Thúc đẩy hợp tác công tư; Hỗ trợ tư vấn phát triển dịch vụ bền vững; Thúc đẩy đổi thoại giữa nông dân, HTX và các nhà hoạch định chính sách.
Điển hình, Agriterra Việt Nam hỗ trợ cho HTX Nông nghiệp Kiến Thành (Hậu Giang) như: tư vấn xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn 2024-2028 (tăng quy mô sản xuất theo tiêu chuẩn nông nghiệp bền vững từ 250 ha năm 2023 lên 505 ha năm 2028); Chiến lược và kế hoạch sử dụng hiệu quả nguồn lực được hỗ trợ từ Chính phủ (nhà kho, các trang thiết bên trong trị giá gần 10 tỷ đồng).
Bên cạnh đó, tập huấn gia tăng cam kết thành viên (tăng số thành viên từ 265 năm 2024 lên 415 thành viên năm 2028). Đồng thời, thúc đẩy hợp tác công tư (Agriterra, Sorimachi, HTX, Sở NN&PTNT) về chuyển đổi số.
Cùng với đó là hỗ trợ tư vấn phát triển dịch vụ (HTX) bền vững cho thành viên HTX và nông dân trong địa phương hướng tới đảm bảo chất lượng đầu vào, tiết kiệm chi phí (mục tiêu gia tăng thu nhập cho thành viên).
Thúc đẩy đổi thoại giữa HTX, nông dân với các nhà hoạch định chính sách, các đơn vị hỗ trợ phát triển HTX thông qua hoạt động đánh giá giữa kỳ Đề án Nông nghiệp bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu tỉnh Hậu Giang.
Chính sách thuế VAT với phân bón tác động lớn đến nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp
Theo ông Nguyễn Văn Phụng, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính), tái cơ cấu nông nghiệp là một chủ đề có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển bền vững ngành nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và biến đổi khí hậu.
Trong những năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, tình hình tài chính trong ngành nông nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức. Chi phí sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam vẫn cao, trong khi lợi nhuận thu được từ nông nghiệp lại thấp. Điều này gây khó khăn cho nông dân và doanh nghiệp trong việc đầu tư vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông sản.
Ông Phụng cho rằng có 3 yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tái cơ cấu chuỗi giá trị nông sản: chi phí sản xuất; tài chính và tín dụng; chính sách thuế và hỗ trợ.
“Các chính sách thuế và hỗ trợ của Nhà nước có tác động lớn đến tình hình tài chính của nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp. Các chính sách không hợp lý có thể làm tăng gánh nặng chi phí, trong khi các chính sách hỗ trợ hiệu quả có thể giúp giảm chi phí và tăng cường khả năng cạnh tranh”, ông Phụng nhấn mạnh.
Trong đó, chính sách thuế VAT với phân bón là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chi phí sản xuất nông nghiệp, đặc biệt tác động không nhỏ đến nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp.
Ông Nguyễn Văn Phụng, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính). |
Chuyên gia này phân tích: Do không được khấu trừ thuế VAT đầu vào, giá thành phân bón tăng lên, dẫn đến chi phí sản xuất nông nghiệp tăng. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp.
Đồng thời, chi phí sản xuất cao làm giảm khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế. Điều này gây khó khăn cho việc xuất khẩu nông sản và ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân.
Bên cạnh đó, giá phân bón cao làm giảm khả năng tiếp cận phân bón chất lượng của nông dân, dẫn đến việc sử dụng phân bón kém chất lượng, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Để giảm gánh nặng chi phí cho nông dân và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp bền vững, ông Phụng cho rằng cần xem xét cải thiện chính sách thuế VAT đối với phân bón.
Cụ thể, nên áp dụng thuế suất đối với phân bón giúp giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận và khả năng cạnh tranh của nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp. Cùng với đó là cho phép các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh phân bón được khấu trừ thuế VAT đầu vào giúp giảm giá thành phân bón, từ đó giảm chi phí sản xuất cho nông dân.
Về vấn đề tăng cường hỗ trợ tài chính và tín dụng, cần cung cấp các khoản vay ưu đãi, hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu và phát triển, giúp nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp có đủ nguồn vốn để đầu tư vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản.
Về vấn đề bảo hiểm nông nghiệp, cần cung cấp các gói bảo hiểm nông nghiệp phù hợp và hỗ trợ tài chính cho bảo hiểm nông nghiệp, giúp nông dân giảm thiểu rủi ro và bảo vệ tài sản trước các tác động của biến đổi khí hậu và thiên tai.
Bên cạnh đó, ông Phụng cho rằng cần cung cấp các ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, đầu tư vào hạ tầng và logistics, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và tiêu thụ nông sản.
Đồng thời, xây dựng thương hiệu nông sản, mở rộng thị trường xuất khẩu, xây dựng hệ thống tiêu thụ trong nước và khuyến khích tiêu dùng nông sản trong nước.
Đẩy mạnh hợp tác thực hiện chuyển đổi xanh
Theo ông Hoàng Anh Dũng, Tổng giám đốc Intraco, các tập đoàn lớn trên thế giới như Apple, Amazon, Alibaba… đều đã công bố kế hoạch chuyển đổi xanh, đã được các tổ chức đánh giá thẩm định là những đơn vị tiên phong chuyển đổi xanh.
Hiện nay, tất cả sản phẩm lưu hành tại châu Âu đều phải có nhãn chứng nhận chuyển đổi xanh. Khách hàng có xu hướng lựa chọn những sản phẩm ít phát thải carbon.
Thế giới đang có hơn 4000 công ty, doanh nghiệp toàn cầu áp dụng tiêu chuẩn Net Zero. Điển hình như Amazon và Alibaba đã dán nhãn carbon trên các sản phẩm. Vì vậy, các nhà cung ứng cũng phải áp dụng tiêu chuẩn này.
Ông Hoàng Anh Dũng, Tổng giám đốc Intraco |
Tại Việt Nam, nhiều thương hiệu lớn cũng đã hướng đến sản xuất xanh hoá các sản phẩm nông nghiệp, có thể kể đến Unilever. Để thực hiện điều này, Uniliver toàn cầu bỏ ra 1 tỷ Euro mỗi năm để xử lý vấn đề này.
Hiện tại, doanh nghiệp này đã đưa ra những mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Cụ thể, về ngắn hạn đến năm 2025 giảm 70% phát thải, đến năm 2030 là giảm 100% phát thải và đến 2039 là Net Zero.
Hay như Vinamilk cũng đưa ra mục tiêu năm 2027 giảm là 15% phát thải , 55% vào năm 2035, Net Zero vào năm 2050… Đến năm 2023, Vinamilk đã thực hiện trung hoà carbon cho 3 nhà máy…
Tuy nhiên, hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam đứng trước áp lực rất lớn về chuyển đổi xanh trong sản xuất.
“Doanh nghiệp áp lực chính từ những đối tác đặt hàng từ nước ngoài”, ông Dũng cho hay.
Đồng thời, Tổng giám đốc Intraco dẫn chứng: Ngay trong lĩnh vực dệt may, nhiều doanh nghiệp đã mất đơn hàng vào tay doanh nghiệp Bangladesh do chưa xanh hoá chuỗi sản xuất.
Do đó, ông Dũng cho rằng, doanh nghiệp phải luôn nghĩ làm sao để giảm được phát thải carbon, đặc biệt giảm phát thải trong chăn nuôi và thức ăn.
Đối với nông nghiệp, phát thải từ khâu vận chuyển, logistics rất lớn, nên có thể chuyển đổi từ xe xăng dầu sang xe điện, khí gas tự nhiên. Hiện nay, có nhiều dự án hydrogen có thể thay thế nhiên liệu phát thải carbon như gas, xăng dầu…
Ứng dụng công nghệ thông tin là nền tảng cơ bản để phát triển chuỗi giá trị hàng hóa
Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Bagico, bà Nguyễn Thị Thành Thực, nhấn mạnh rằng việc ứng dụng công nghệ thông tin là yếu tố nền tảng để phát triển chuỗi giá trị hàng hóa. Công nghệ không chỉ giúp giảm chi phí và nâng cao năng suất, chất lượng nông sản mà còn kết nối nhanh chóng và trực quan hơn giữa nông dân, hợp tác xã (HTX), đồng thời thu hẹp khoảng cách trong quy trình sản xuất. Dù Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ, nhưng nếu nông dân không tham gia vào chuỗi giá trị, họ sẽ gặp khó khăn trong việc nắm bắt và áp dụng công nghệ hiệu quả.
Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Bagico Nguyễn Thị Thành Thực. |
Dẫn chứng về ứng dụng công nghệ thông tin trong phát triển chuỗi giá trị sầu riêng, bà Nguyễn Thị Thành Thực cho biết người dân hiện sản xuất sầu riêng phần lớn theo quy mô nông hộ, sản xuất nhỏ lẻ, ghi chép thủ công hoặc không ghi chép. Người dân cũng chủ yếu làm theo kinh nghiệm, thường chủ hộ sẽ truyền lại cho con cháu những kinh nghiệm tích lũy được theo cách truyền miệng.
Đặc biệt, hiện nay chưa có nhiều phần mềm dành cho các nông hộ nói chung, HTX nói riêng. Bên cạnh đó, cũng chưa có nhiều nông hộ có mong muốn học tập và thay đổi cách quản lý sản xuất theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin
Nhận thấy điều này, Bagico đã đẩy mạnh nghiên cứu và hỗ trợ người dân, HTX trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý sản xuất sầu riêng. Công ty đã cung cấp phần mềm kế toán, truy xuất nguồn gốc, trang web, mạng xã hội để quảng bá và khẳng định chất lượng sầu riêng, đồng thời kết nối khách hàng. Ngoài ra, Bagico còn hỗ trợ HTX trong quản lý tài sản và sử dụng nhật ký điện tử, giúp việc liên kết chuỗi trở nên dễ dàng hơn, chỉ cần qua một chiếc điện thoại thông minh.
Từ việc ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển chuỗi giá trị sầu riêng, bà Nguyễn Thị Thành Thực cho rằng ứng dụng công nghệ vào quản lý sản xuất và liên kết chuỗi là điều kiện tiên quyết để nâng cao giá trị ngành hàng sầu riêng nói riêng và các ngành hàng nông sản khác tại Việt Nam.
Bà cũng khẳng định sẵn sàng hợp tác với Liên minh HTX Việt Nam để phát triển các ứng dụng công nghệ phù hợp, giúp nông dân và HTX ứng dụng công nghệ một cách hiệu quả trong sản xuất và kinh doanh.
HTX cần chuyển từ vận hành sản xuất theo hướng “trọng cung” sang sản xuất theo hướng “trọng cầu”
Theo ông Nguyễn Quốc Mỹ, cố vấn HTX Nông nghiệp công nghệ cao An Bình (Hiệp Hòa, Bắc Giang), để ngành nông nghiệp của Việt Nam “cất cánh” theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW, với điều kiện thực tế của các HTX mới khởi nghiệp như HTX An Bình cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Cụ thể là Việt Nam về cơ bản vẫn còn là nền nông nghiệp quảng canh, quản trị theo hình thái tiểu nông nên rủi ro cao và hiệu quả thấp. Vì vậy, muốn phát triển hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, cần chọn lựa mô hình HTX để tập hợp đất đai, sức lao động, vốn và nhiều nguồn lực khác, đảm bảo đủ lớn có tính chất đại diện ở cấp huyện trở lên để tập trung hỗ trợ và thúc đẩy liên kết sản xuất.
Đi liền với đó, nông sản hiện chủ yếu còn ở dạng thô dẫn đến khó cạnh tranh, tiêu tốn nhiều nguồn lực. ứng dụng khoa học - công nghệ và cơ giới hóa trong sản xuất còn thấp nên ở một số lĩnh vực, ngành hàng vẫn đi sau khá xa so với thế giới. Chính vì vậy, người dân, HTX cần chọn lựa sản xuất sản phẩm theo tiêu chuẩn cao. Cụ thể là tại HTX An Bình đã lựa chọn sản xuất và chế biến thịt lợn theo tiêu chuẩn hữu cơ để duy trì thế mạnh về chất lượng sản phẩm.
Theo ông Nguyễn Quốc Mỹ, cố vấn HTX Nông nghiệp công nghệ cao An Bình |
Bên cạnh đó, các HTX cần tận dụng nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước để đầu tư máy móc chế biến, đầu tư bao bì, tem nhãn để tăng sức cạnh tranh và đi vào những thị trường khó tính.
Việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất như: các máy bán tự động trong chế biến thức ăn, hệ thống cho ăn bán tự động, hệ thống điện tự động để giảm nhân công cũng là điều rất cần thiết trong sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả của chuỗi giá trị hàng hóa trên thị trường.
Cố vấn HTX Nông nghiệp công nghệ cao An Bình cho biết nhìn trên diện rộng, sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam vẫn chưa gắn bó với công nghiệp thành một hệ thống để bổ sung, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Số lượng doanh nghiệp ở Việt Nam lớn, nhưng vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp trong trong liên kết chuỗi hiện còn ít. Do đó, cần có những doanh nghiệp, liên hiệp HTX đầu tàu để hỗ trợ cho các HTX liên kết sản xuất tuần hoàn và sử dụng phụ phẩm của nhau như: hỗ trợ nông dân phát triển vùng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, ký hợp tác với một vài cơ sở sản xuất rượu ở địa phương để tận dụng phụ phẩm bã rượu, tận dụng các phụ phẩm ngành lương thực để chế biến thức ăn chăn nuôi nhằm giảm giá thành sản xuất đầu vào.
Đặc biệt, việc nghiên cứu rõ từng thị trường tiêu thụ để có chính sách phát triển phù hợp là điều cần thiết đối với những HTX muốn phát triển chuỗi giá trị hàng hóa. Muốn vậy, HTX không nên mở ồ ạt điểm bán, mà cần mở dần từng điểm bán và có tổng kết đánh giá rõ ràng theo hướng “tốt đến đâu mở đến đó”. Tập trung xây dựng thương hiệu và nâng cao khả năng chăm sóc khách hàng cũng cần được coi trọng hơn là việc bán số lượng.
Ông Nguyễn Quốc Mỹ cũng cho rằng để phát triển được chuỗi giá trị và ứng dụng hiệu quả công nghệ cao, HTX cần chuyển từ vận hành sản xuất theo hướng “trọng cung” sang sản xuất theo hướng “trọng cầu”. Vì cùng một sản phẩm nhưng nhu cầu người tiêu dùng ở mỗi địa phương lại có sự khác nhau về mùi, vị, hình thức...
Song song đó, HTX cần quan tâm đến phát triển thị trường, đặc biệt là chú trọng đến thị trường trong nước với tầng lớp trung lưu lên đến cả chục triệu người. Nếu nhiều HTX cùng làm được điều này sẽ dần hình thành văn hóa: Nông sản nào ngon, quý, chất lượng nhất thì ưu tiên để dân trong nước tiêu dùng, sau đó mới hướng đến xuất khẩu. Để làm được điều này, HTX cần định hướng rõ sản phẩm đặc sản vùng miền, ưu tiên chế biến sâu và quảng bá sản phẩm trên mọi nền tảng (đặc biệt là trên truyền hình và mạng xã hội, hội chợ...) để thuận lợi trong việc tiếp cận khách hàng.
3 nguyên tắc cơ bản: Tiết kiệm, Tự nhiên và Thân thiện
Chị Vũ Thị Lệ Thủy, Giám đốc HTX 3T Farm (Cao Phong, Hòa Bình) cho biết trong bối cảnh hiện nay, khi nền nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức lớn từ biến đổi khí hậu, sự suy thoái đất đai, đến các vấn đề liên quan đến an toàn thực phẩm và sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường quốc tế, việc tìm kiếm và phát triển các mô hình sản xuất bền vững không chỉ là nhu cầu cấp thiết mà còn là xu thế tất yếu. HTX 3T Farm đã và đang nỗ lực không ngừng để xây dựng và triển khai mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản bền vững, nhằm đáp ứng những thách thức và cơ hội đó.
HTX 3T Farm hiện là đơn vị duy nhất tại Hòa Bình có dây chuyền sơ chế sau thu hoạch sản phẩm cam tươi, sản lượng bình quân hàng năm khoảng trên 300 tấn. Giá bán bình quân cao hơn mặt bằng chung thị trường khoảng 20%. Giá bao tiêu cho thành viên HTX cao hơn mặt bằng chung thị trường thấp nhất là 10%.
Chị Vũ Thị Lệ Thủy, Giám đốc HTX 3T Farm. |
Để đạt được những kết quả trên, HTX không chỉ dừng lại ở việc sản xuất ra những sản phẩm chất lượng, mà còn phải đảm bảo quá trình sản xuất không gây hại đến môi trường, đồng thời đảm bảo lợi ích kinh tế cho nông dân. Chính vì vậy, mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản bền vững của HTX được xây dựng dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản: Tiết kiệm, Tự nhiên và Thân thiện.
Thứ nhất, nguyên tắc Tiết kiệm được thể hiện qua việc tối ưu hóa các nguồn tài nguyên thiên nhiên như nước, đất, và năng lượng. HTX đã áp dụng kỹ thuật canh tác bền vững, tạo thảm thực vật che phủ để chống rửa trôi xói mòn trong mùa mưa và hạn chế khô hạn vào mùa khô, tiết kiệm nước; sử dụng phân bón hữu cơ tự nhiên và các phương pháp canh tác tiên tiến để giảm thiểu tối đa lượng khí thải carbon, từ đó góp phần bảo vệ môi trường và giảm chi phí sản xuất.
Thứ hai, nguyên tắc Tự nhiên là việc ưu tiên sử dụng các phương pháp canh tác tự nhiên, không sử dụng hóa chất độc hại và thuốc trừ sâu tổng hợp. HTX thúc đẩy việc áp dụng các biện pháp sinh học và kỹ thuật canh tác truyền thống kết hợp với công nghệ hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng và bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp.
Thứ ba, nguyên tắc Thân thiện nhấn mạnh đến sự hợp tác, gắn kết chặt chẽ giữa các thành viên trong HTX, giữa người sản xuất và người tiêu dùng, cũng như giữa các HTX với nhau. HTX tạo ra các kênh tiêu thụ nông sản trên các nền tảng số để tiếp cận trực tiếp đến người tiêu dùng, giúp đảm bảo giá trị sản phẩm, giảm thiểu chi phí trung gian và nâng cao lợi ích cho người nông dân.
Một trong những yếu tố quan trọng giúp HTX 3T Farm thành công trong mô hình này chính là sự hợp tác chặt chẽ với các tổ chức phi chính phủ như Ecofair, AEA, các viện nghiên cứu như “Viện giải pháp kỹ thuật nông nghiệp bền vững” và các đối tác trong nước và quốc tế. HTX đã xây dựng được một mạng lưới hợp tác đa dạng, từ đó học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm và công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và quản lý cho các thành viên.
Chị Vũ Thị Lệ Thủy cho biết, HTX đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng mối liên kết bền vững với người tiêu dùng thông qua các chương trình giáo dục, các buổi trải nghiệm thực tế truyền thông về lợi ích của sản phẩm nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, HTX đã phát triển các mô hình kinh doanh sáng tạo, như cửa hàng nông sản sạch, trang trại tham quan và học tập, nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng và thúc đẩy tiêu dùng xanh.
Giám đốc HTX 3T Farm cho rằng mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản bền vững mà các thành viên đang thực hiện không chỉ góp phần bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống của người nông dân mà còn đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước.
Tuy nhiên, HTX cũng còn gặp rất nhiều khó khăn thử thách như quy mô còn hạn chế, chưa có công nghệ chế biến sâu để tạo giá trị gia tăng sản phẩm, chưa có nguồn nhân lực được đào tạo chính quy, cơ sở hạ tầng nhà kho, máy móc, chưa có điểm trưng bày giới thiệu sản phẩm. Do đó, các thành viên HTX mong muốn tiếp tục nhận được sự ủng hộ, đồng hành của các cấp chính quyền, các tổ chức, và toàn thể cộng đồng để cùng nhau xây dựng một nền nông nghiệp xanh, sạch, an toàn và phát triển theo chuỗi giá trị bền vững.
Chuỗi liên kết giữa DN và các thành viên quan tâm đến hiệu quả và bền vững
Theo ông Nguyễn Khắc Tiến, Chủ tịch HĐQT Công ty Ameii Việt Nam, hiệu quả thì chắc chắc phải có khi liên kết. Tuy nhiên, với yếu tố bền vững thì ngay bản thân Ameii cũng tranh luận nhiều về sự bền vững.
Ông Tiến đặt vấn đề: Bền vững hay vững bền. Bởi vì để bền vững thì quan điểm của doanh nghiệp (DN) là các yếu tố tham gia chuỗi liên kết bền vững thì người nông dân phải vững về kiến thức và HTX phải vững về quy trình kỹ thuật, DN phải vững về thị trường, vững về tài chính. Đồng thời, nguyên tắc phối kết hợp 2 bên phải vững vàng thì mới có bền.
“Qua thực tiễn của DN vừa có 1 HTX và cũng tham gia 6 chuỗi liên kết về các dòng sản phẩm khác nhau tại Hải Dương, bước đầu đã có thành công trong chuỗi liên kết và được đánh giá là ổn định, nhưng sự bền vững thì chúng tôi đánh giá là chưa”, ông Tiến cho hay.
Ông Nguyễn Khắc Tiến, Chủ tịch HĐQT Công ty Ameii Việt Nam. |
Chủ tịch HĐQT Công ty Ameii Việt Nam cho biết, hiện nay DN đang tham gia liên kết với các HTX bằng cách cử cán bộ kỹ thuật hỗ trợ quy trình canh tác, để tạo ra sản phẩm ban đầu đạt giá trị xuất khẩu, và cam kết thu mua nông sản cao hơn giá thị trường từ 10-20%. Tuy nhiên, đây có phải là yếu tố bền vững hay không thì công ty đánh giá là chưa bền vững.
Phân tích thêm, Chủ tịch HĐQT Công ty Ameii Việt Nam cho hay, các HTX khi liên kết với DN và tham gia thị trường phải am hiểu và có kiến thức và mong muốn gắn kết với DN. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp DN ứng giống, thuốc bảo vệ thực vật, cử cán bộ KHKT hỗ trợ bà con trong sản xuất, nhưng khi thu mua sản phẩm không đạt kỳ vọng, giá mua có thể giảm thì đó cũng chưa thể bền vững. Bởi tư duy của bà con nông dân khi tạo ra sản phẩm phải bán được giá cao. Hay như trong một thời điểm nào đó có đối tác nào đó ngoài DN đến thu mua với giá cao hơn thì bà con sẽ bán cho đối tác đó.
“Do đó, chúng tôi băn khoăn về câu chuyện đầu tư cho bà con nông dân. Chu kỳ của DN phải đầu tư cho bà con từ 6 tháng đến 1 năm, nếu dùng nguồn tài chính cho vay thì phải trả lãi. Vì vậy, sau khi đối trừ phần đầu tư, hiệu quả không mang lại, như vậy tính bền vững chưa đảm bảo”, ông Tiến nói.
Vì vậy, dưới góc độ DN, HTX đang đồng hành cùng bà con nông dân, ông Tiến mong muốn sẽ được các cơ quan quản lý ban hành các văn bản, quan tâm hỗ trợ quy trình kỹ thuật, tạo ra sản phẩm đáp ứng thị trường.
Nhiều DN, HTX không nắm vững được các quy trình xuất khẩu đối với từng sản phẩm cụ thể. Vì vậy cần có công cụ, cơ sở dữ liệu các DN đang tham gia đồng hành chuỗi liên kết nắm rõ được các quy định về rào cản, dư lượng bảo vệ thuốc bảo vệ thực vật… Có sự hỗ trợ để bà con nông dân, HTX biết cách, nắm vững tiêu chuẩn quy định về thị trường
Bản thân DN còn nhiều băn khoăn về quy định các sản phẩm cụ thể. Đơn cử như việc xuất khẩu sản phẩm sang Hàn Quốc có những quy định gì về vi sinh vật, nhưng DN vẫn chưa nắm rõ.
Bên cạnh đó, nếu DN đơn thuần về sản xuất nông nghiệp vẫn đang còn hạn chế về kỹ thuật, cơ sở chế biến trong việc xuất khẩu. DN mong muốn được tiếp cận thông tin về nguồn vốn để sản xuất, kinh doanh tham gia chuỗi liên kết.
Ngoài ra, hiện nay, công tác liên quan tìm kiếm thông tin giao dịch, xuất khẩu, khách hàng, đối tác tại các thị trường vẫn còn hạn chế.
Đồng hành hỗ trợ HTX phát triển chuỗi giá trị
Ông Trần Gia Long, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ NN&PTNT) cho biết Diễn đàn hôm nay chính là kênh để hỗ trợ HTX, nông dân, doanh nghiệp tham gia phát triển chuỗi giá trị hàng hóa một cách hiệu quả, bền vững.
Thực tế cho thấy, các chính sách về hợp tác liên kết hợp tác theo chuỗi giá trị tại Việt Nam đã được ban hành trong thời gian qua. Trong đó, lĩnh vực nông nghiệp có riêng các chiến lược cho từng ngành để thúc đẩy và tạo điều kiện cho từng ngành triển khai các cơ chế chính sách vào thực tiễn.
Một trong những điều đáng ghi nhận hiện nay là cả nước có có hơn 32.000 HTX, trong đó có 21.991 HTX nông nghiệp, chiếm khoảng 65% số HTX trên cả nước. Trong đó, có trên 2.000 HTX đã thực hiện ứng dụng công nghệ cao và trên 3.000 HTX thành lập doanh nghiệp trong HTX.
Ông Trần Gia Long, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ NN&PTNT). |
Ngoài ra, cả nước đã có hơn 13.000 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên (tăng hơn 4.000 sản phẩm so với cuối năm 2022) và hơn 7.000 chủ thể OCOP. Đặc biệt, hơn 32% chủ thể OCOP là các HTX.
Để thúc đẩy chuỗi giá trị hàng hóa hiệu quả và bền vững, Bộ NN&PTNT đang triển khai đề án phát triển vùng nguyên liệu tại 13 tỉnh với các sản phẩm chủ lực như lúa gạo, cây ăn quả, gỗ rừng trồng... Qua quá trình triển khai, đến nay, diện tích vùng nguyên liệu thực hiện liên kết theo chuỗi giá trị với sự tham gia của HTX, doanh nghiệp đã lên 104.000ha.
Từ thực tiễn này, để thúc đẩy phát triển chuỗi giá trị nông sản, ông Trần Gia Long cho biết ngành nông nghiệp đang tập trung vào các lĩnh vực như phát triển sản xuất xanh, sản xuất tuần hoàn gắn với ứng dụng chuyển đổi số. Muốn vậy, vai trò của HTX là điều không thể bỏ qua, trong đó Liên minh HTX đang đóng vai trò dẫn dắt và hỗ trợ các HTX phát triển theo chuỗi cũng như tiếp cận và ứng dụng các chính sách một cách phù hợp, thuận lợi.
Chính vì vậy, Liên minh HTX Việt Nam cần tiếp tục cùng các Bộ ngành đẩy mạnh hỗ trợ HTX chuyển từ sản xuất thông thường sang sản xuất xanh, bền vững; thực hiện sản xuất theo hướng phục vụ từ đồng ruộng đến bàn ăn để nâng cao giá trị cạnh tranh cho nông sản và nâng cao hiệu quả kinh tế cho nông dân. Đây cũng sẽ là nền tảng để thúc đẩy tái cơ cấu nông nghiệp, góp phần vào phát triển “tam nông”.
Bên cạnh đó, để giúp HTX, nông dân tham gia sâu và rộng hơn vào các chuỗi giá trị hàng hóa, Liên minh HTX cần tiếp tục đồng hành cùng với Bộ NN&PTNT cũng như các ban ngành khác trong việc rà soát, sửa đổi một số chính sách liên quan đến phát triển nông nghiệp và phát triển HTX. Cụ thể như việc sửa đổi hoàn thiện Nghị định 88/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp cần được nhanh chóng thực hiện; việc xem xét để có các chính sách hỗ trợ HTX liên kết hợp tác và phát triển theo các chuỗi giá trị bền vững như sản xuất xanh, sản xuất tuần hoàn… cũng cần nhanh chóng được triển khai nhằm giúp các HTX nhanh chóng thích ứng với thị trường.
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân |
Kết luận Diễn đàn, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam, bà Cao Xuân Thu Vân, đã nêu bật bốn vấn đề chính mà các hợp tác xã (HTX) đang đối mặt.
Thứ nhất, việc tiếp cận thông tin của DN và HTX hiện nay là một thách thức. Mặc dù công nghệ số và mạng xã hội phát triển, nhưng cũng tạo ra sự nhiễu loạn thông tin. Vì vậy, cần có những kênh thông tin chính thống và đáng tin cậy. Bà Vân cũng bày tỏ sự ủng hộ đối với đề xuất của Công ty Bagico trong việc hỗ trợ xây dựng một nền tảng thông tin cho HTX, cung cấp các thông tin thị trường quốc tế chi tiết và các quy định xuất khẩu cụ thể.
Thứ hai, HTX cần tuân thủ quy trình sản xuất, nhưng hiện tại, việc tiếp cận thông tin về quy trình này vẫn gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba, vấn đề về vốn vẫn là một thách thức lớn đối với HTX, khi mà nhiều HTX thiếu hụt nghiêm trọng nguồn vốn cần thiết để sản xuất và kinh doanh.
Thứ tư, HTX cần có thông tin về khách hàng. Bà Vân nhấn mạnh rằng đã đến lúc cần có một website hoặc hệ thống thông tin riêng dành cho HTX để hỗ trợ trong việc kết nối và phát triển.
Bà Vân cũng nêu thêm rằng mặc dù hiện nay có nhiều chính sách về thuế và đất đai, nhưng vẫn thiếu một chính sách thuế riêng biệt dành cho HTX.
Bà Cao Xuân Thu Vân khẳng định Liên minh HTX Việt Nam sẽ tiếp tục đóng vai trò là người đại diện thiết thực và hiệu quả hơn nữa cho các HTX trong thời gian tới.
Nguồn tin: VNBUSINESS::
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn